Tóm tắt: Đấu tranh giải phóng phụ nữ là
một trong những nội dung quan trọng trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó
thực sự là những bài học có giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối
với cách mạng Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đã và đang đấu tranh
vì sự bình đẳng của người phụ nữ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Lịch sử Việt
Nam từ trước đến nay hiếm có một lãnh tụ nào quan tâm đến phụ nữ như Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Người không chỉ đề ra những quan điểm bảo vệ người phụ nữ mà còn đấu
tranh không biết mệt mỏi để giải phóng phụ nữ. Hồ Chí Minh đã đánh giá đúng vai
trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam, họ là lực
lượng trọng yếu nhất vì nếu thiếu quần chúng phụ nữ thì cách mạng không thể giành
thắng lợi được. Người đã viết: “Non
sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ Việt Nam, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà
thêm tốt đẹp, rực rỡ” [1, tr.432].
2. CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG PHỤ NỮ
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vị trí và vai trò người phụ
nữ Việt Nam đối với lịch sử dân tộc
Dân tộc Việt Nam qua hàng nghìn năm đấu
tranh dựng nước và giữ nước đã sản sinh biết bao nữ anh hùng hào kiệt, những
chiến sĩ tiền phong của cách mạng Việt Nam. Đó là hình ảnh Bà Trưng, Bà Triệu
những năm đầu công nguyên đánh quân Hán; là Triệu Thị Trinh với tinh thần “muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp bằng sóng dữ, chém cá kình ở biển
Đông, đánh đuổi quân Ngô, giành lại giang san, cởi ách nô lệ, chứ không chịu
khom lưng làm tì thiếp người ta”; là hình ảnh Nguyên phi Ỷ Lan Hoàng thái hậu
gánh vác sơn hà… Sang thời kỳ kháng chiến chống thực dân đế quốc, tấm gương
người con gái trẻ tuổi Võ Thị Sáu hiên ngang trước nanh vuốt quân thù; anh hùng
Nguyễn Thị Định với tài chỉ huy mưu lược đã nêu cao tinh thần dân tộc, lòng tự
hào tự tôn dân tộc và ý chí đấu tranh kiên cường... Với những cống hiến to lớn đó, phụ nữ
Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh vinh danh bằng 8 chữ vàng: “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”.
Đó là sự ghi nhận của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta về truyền thống hào hùng và
bản chất tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam. Tiếp tục ngọn lửa truyền thống đó, trong
sự nghiệp đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phụ nữ Việt Nam đã không ngừng vươn
lên làm chủ tri thức, làm chủ chính mình và bước lên vũ đài chính trị, tham gia
quản lý nhà nước.
2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đã thức tỉnh phụ nữ đứng lên,
cùng với dân tộc thực hiện công cuộc giải phóng chính mình.
Trong quá trình khảo cứu
con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam nói
riêng và phụ nữ các dân tộc bị áp bức nói chung luôn hiện hữu trong suy nghĩ,
tư tưởng và tình cảm của Người. Những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh viết
hàng loạt tác phẩm, bài báo tố cáo tội ác của chế độ thực dân đối với người phụ
nữ. Trong bài viết Phụ nữ An Nam và sự đô hộ Pháp đăng
báo Le Paria, số 5, ngày 1.8.1922, Người viết: “Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một
hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi. Bạo lực đó
đem ra đối xử với trẻ em và phụ nữ lại càng bỉ ổi hơn nữa” [1, tr.96]. Người gọi chế độ
thực dân là chế độ “cướp
bóc”,”giết người” và “cưỡng bức” - chế độ “đối xử một cách hết sức bỉ ổi với người đàn bà bằng xương bằng thịt và
xúc phạm một cách vô liêm sỉ tới phong hoá, trinh tiết và đời sống của họ” [1,
tr.96]. Do vậy, phải đánh đuổi bọn thực dân xâm
lược, phải giành độc lập dân tộc để giải phóng triệt để người phụ nữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ
của người phụ nữ Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp
và bọn phong kiến tay sai. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vị trí
và vai trò của người phụ nữ và đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng
phụ nữ. Người khẳng định: “Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một
nửa loài người”, “nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ
một nửa” [5, tr.523] … Chính vì vậy, trong Mười chính sách của Việt Minh (1941),
Người viết: “Đàn bà cũng được tự do, Bất phân nam nữ, đều cho bình quyền” [2, tr.206].
Khi nhận thấy giáo dục nước nhà chưa
thật sự quan tâm đến người phụ nữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh kiểm điểm: “trong giáo
dục, y tế, các ngành khác, số phụ nữ đều thấp”, vì vậy “giáo dục phải cố gắng
để phụ nữ nhiều hơn”. Người luôn động viên, khuyến
khích chị em chịu khó học tập để có làm chủ đất nước, đảm nhiệm những công việc
như nam giới. Người viết: “Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm
hãm. Đây là lúc các chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là
một phần tử trong nước, có quyền bầu và ứng cử” [3,
tr.37]. Khi bàn về việc bầu chủ
nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp, Bác đề nghị bầu nhiều phụ nữ vào cương vị này vì
“phụ nữ làm chủ nhiệm đâu có đánh chén. Chủ nhiệm nữ thật thà, phải đưa nhiều
phụ nữ tham gia làm chủ nhiệm”.
2.3. Mở rộng quyền bình đẳng của
người phụ nữ trong các lĩnh vực đời sống xã hội
Chủ tịch
Hồ Chí Minh không chỉ đề cập đến quyền bình đẳng, mà còn mở rộng quyền bình
đẳng của phụ nữ đối với nam giới một cách tối đa trên nhiều lực vực khác nhau.
Người viết: “Công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
Đàn bà có quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội và gia đình” [5, tr.593]. Tư tưởng “nam nữ bình quyền” của Hồ Chí Minh được ghi trong
Chánh cương vắn tắt của Đảng và sớm được thể chế hoá trong Hiến pháp năm nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946. Điều 9 của Hiến pháp
ghi: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Hiến pháp năm 1959 tiếp tục khẳng định: “Công dân nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 22). Thông qua hai bản Hiến
pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1946 và 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định quyền bình đẳng của mọi công dân Việt Nam trên tất cả các lĩnh
vực, trong đó người phụ nữ và quyền bình đẳng của họ được Người đặc biệt quan
tâm. Trong
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bác nêu rõ: “Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu
nước, phụ nữ vô cùng đảm đang, đã đóng góp rất nhiều trong chiến đấu và sán
xuất. Đảng, Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp
đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách nhiều công việc kể cả lãnh đạo. Phụ
nữ phải phấn đấu vươn lên, đây là thực sự là một cuộc cách mạng” [6, tr.504].
3. KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí
Minh - lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, nhà văn hoá kiệt xuất của
thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự tiến bộ của phụ nữ và thực tiễn đấu tranh
giải phóng con người chứa đựng những giá trị nhân văn cao đẹp. Người không chỉ cảm
thông sâu sắc với sự thống khổ của người phụ nữ Việt Nam và
phụ nữ các dân tộc thuộc địa trên thế giới, mà còn đoàn kết, thức tỉnh họ tham gia vào công
cuộc kiến thiết nước nhà, giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình và đấu tranh vì sự tiến bộ chung của loài người.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6.
Title: HO
CHI MINH PRESIDENT WITH THE CAUSE OF WOMEN'S LIBERATION
Abstract: Women's liberation struggle is one of the important content in the legacy of President Ho Chi Minh. That is really valuable lessons and practical reasoningprofound for for Vietnam's revolution as well as social and political organizations has been fighting for the
equality of women.
GV. NGUYỄN VĂN QUANG
Khoa GDCT - Trường ĐHSP Huế
SĐT: 0973882488
Email:
nguyenvanquang@dhsphue.edu.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét