Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

NÉT ĐẬC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

NÉT ĐẬC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN VĂN QUANG
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế

Tóm tắt: Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất và năng lực của một anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, nhà hoạt động chính trị, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam. Một trong những biểu hiện của đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh là sự uyên bác về trí tuệ, được biểu hiện qua mẫn cảm chính trị, nhãn quan chính trị thiên tài và khả năng dự báo thiên tài về các vấn đề liên quan đến cách mạng Việt Nam.
Từ khóa: Nhân cách, Hồ Chí Minh, trí tuệ

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc của cách mạng Việt Nam, mà còn là một chiến sĩ cống hiến không mệt mỏi cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc; một nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà văn hóa ghi dấu ấn trong lịch sử phát triển nhân loại… Nhân cách Hồ Chí Minh được kết tinh từ truyền thống văn hóa - giáo dục của gia đình, quê hương, đất nước; từ sự tác động đa chiều của điều kiện văn hóa, xã hội, lịch sử và con người của dân tộc và thời đại; từ giáo dục của nhà trường và quá trình tự giáo dục của bản thân, sự khổ công tu dưỡng, rèn luyện; từ tư chất, năng lực của con người Hồ Chí Minh; từ ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của các học thuyết, tư tưởng tiến bộ của nhân loại; từ gương sáng của các nhà hoạt động chính trị tiến bộ, nhà văn hóa trên thế giới.
Nhân cách Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình tự ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là gia đình với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung quanh, không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí kiên cường bất khuất. Nhân cách Hồ Chí Minh được định hình, bồi đắp và không ngừng hoàn thiện trong cuộc đấu tranh kiên cường, bền bỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người để hướng con người tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Với những đặc trưng về trí tuệ, phẩm chất, năng lực và phong cách, nhân cách Hồ Chí Minh có giá trị to lớn trong việc soi sáng con đường phát triển của dân tộc, định hướng xây dựng con người mới và sự tu dưỡng không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Nhân cách bao gồm nhiều mặt, tuy nhiên, trong bài viết này, chúng tôi tập trung vào mặt trí tuệ của nhân cách Hồ Chí Minh.
2. TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
2.1. Nhân cách
Nhân cách là một chủ đề được nghiên cứu từ rất sớm ở cả phương Đông và phương Tây. Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong đó Nhân là gốc. Ở phương Tây, B.G.Ananhiep cho rằng nhân cách là cá thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng bước tiến lịch sử. Học giả X.L.Rubinstein coi nhân cách là ý thức và thái độ của chủ thể đối với thế giới xung quanh, người khác và chính bản thân.
Ở Việt Nam, thuật ngữ nhân cách được luận giải theo nhiều góc độ khác nhau: (1) Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động); (2) Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người; (3) Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, nhân ái, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động; (4) Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người… Trong công trình Tâm lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn xác định nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Từ điển tiếng Việt ghi rõ nhân cách là “tư cách và phẩm chất con người” và “phẩm chất” đó được Hồ Chí Minh nêu rõ là các “tư cách của người cách mạng với 23 điều ngắn gọn, thuộc về ba cách ứng xử của người cách mạng với: chính bản thân, với người khác và với công việc.
Từ sự luận dẫn các quan niệm, quan điểm nêu trên, có thể khẳng định: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được hình thành và phát triển trong tương tác giữa con người với xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
2.2. Nhân cách Hồ Chí Minh
Dưới góc độ tâm lý học, “Nhân cách của Hồ Chí Minh không tách rời quá trình hình sự tự ý thức, ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là ở gia đình với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung quanh, không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí kiên cường bất khuất”[7, tr.8]. Theo cách tiếp cận này, nhân cách Hồ Chí Minh có thể hiểu là “sự tự ý thức về bản thân mình đối với cuộc sống do những tác động đa chiều của thực tiễn xã hội”. Nhà nghiên cứu Mạch Quang Thắng khái quát Nhân cách Hồ Chí Minh là: “chuẩn mực giá trị của dân tộc Việt Nam và thời đại Hồ Chí Minh”. Nhà văn học Đức Eđuard Claudius (1911-1976) cho rằng nhân cách Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa hoạt động và nhân cách chính trị với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, nhân hậu.
Xét về nội dung, nhân cách Hồ Chí Minh được biểu hiện qua các biểu hiện như: Ưu tiên đạo đức; Tận tụy quên mình; Kiên trì, bất khuất; Khiêm tốn, giản dị; Hài hòa, kết hợp; Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; Yêu thiên nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi viết về nhân cách Hồ Chí Minh đã nêu lên một nội dung quan trọng - một thuật ngữ khoa học là “chất Người” trong nhân cách Hồ Chí Minh. Theo Phạm Minh Hạc, nhân cách Hồ Chí Minh chính là 23 giá trị nhân cách đúc kết trong những thành tố tiểu cấu trúc nhân cách bao gồm: “Tâm, tài, lực”… về sau khái quát thành lý thuyết “cấu trúc vĩ mô của nhân cách bao gồm tài, đức”, trong đó đức là gốc.
Từ các cách tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh nêu trên, có thể hiểu: Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất, năng lực, lý tưởng, ý chí kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà chính trị thiên tài, có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong cách, lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm chất và năng lực con người Việt Nam.
2.3. Trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh
Cho đến nay, các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh tập trung chủ yếu vào khía cạnh “đạo đức” - phần “phẩm chất” nhiều hơn là khía cạnh “trí tuệ” - phần “năng lực”. Do đó, hiện nay vẫn chưa có khái niệm “nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ”, cũng như chưa xác định nội hàm “trí tuệ” trong nhân cách Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người không chỉ sáng ngời về phẩm chất đạo đức, phương pháp, phong cách và lối sống, mà còn là hình tượng mẫu mực về trí tuệ uyên bác, nhãn quan sắc bén và am tường nhiều giá trị văn hóa dân tộc và thế giới.
Từ khái niệm nhân cách (2.1) và nhân cách Hồ Chí Minh (2.2), ta có thể hiểu trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh là những năng lực đặc biệt của Hồ Chí Minh, được thể hiện qua sự uyên bác về trí tuệ, lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, mẫn cảm với cái mới, khả năng tiếp biến và thâu hóa các giá trị văn hóa, nhãn quan chính trị sắc bén và tầm nhìn chiến lược của một thiên tài.
3. NÉT ĐẶC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
Nét đặc sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh được thể hiện rất phong phú. Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi khái quát những nội dung như: sự uyên bác về trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén; mẫn cảm với cái mới, khả năng thâu hóa các giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại; khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận động của cách mạng Việt Nam…
3.1. Trí tuệ mẫn tiệp, nhãn quan chính trị thiên tài trong việc lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Với khả năng tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nhãn quan chính trị thiên tài, Hồ Chí Minh đã vượt qua “sự hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… trong việc tìm kiếm con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Người đã xác định đúng phương hướng và phương thức cứu nước, kiên trì và dũng cảm thực hiện lý tưởng cao đẹp giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Ở độ tuổi thanh thiếu niên, Hồ Chí Minh đã chứng kiến những làn sóng đấu tranh mạnh mẽ của dân tộc, từ bậc vua quan trung thần, nghĩa sĩ cho đến quần chúng nhân dân đang bị đọa đày đau khổ. Năm 1908, Người thấy rõ hạn chế “chưa biết tổ chức và chưa có tổ chức” từ sự thất bại của phong trào kháng thuế của nhân dân Trung kỳ. Thất bại của các cuộc kháng Pháp do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, đến xu hướng cứu nước mới của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã giúp Hồ Chí Minh thấy con đường cách mạng, phương pháp đấu tranh của các bậc tiền bối không phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam, ý thức hệ phong kiến và tư sản “không có khả năng vạch ra giải pháp đấu tranh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát triển của thời đại”. Hồ Chí Minh khâm phục họ nhưng không tán thành con đường cứu nước nào, cũng như từ chối con đường Đông Du theo lời mời gọi của cụ Phan Bội Châu vào năm 1905, vì theo Hồ Chí Minh, con đường cứu nước của Hoàng Hoa Thám còn nặng cốt cách phong kiến đã không thể dẫn tới thắng lợi, con đường cầu viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”, còn con đường cải lương của Phan Châu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Đúng như Trần Văn Giàu nhận định “Nguyễn Tất Thành không đi Phồn Xương, tuy đó là con đường ngắn nhất. Không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác khuyến khích. Không đi Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào giai đoạn “cử đồ đại sự”. Trong ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không chịu một con đường nào” [1, tr.81].
Từ sự phân tích trên ta có thể thấy, Hồ Chí Minh có một “cái nhìn khác”, một nhãn quan đầy sức phê phán trong nhận thức về kẻ thù và con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã mạnh dạn “khước từ” cái sai để đi tìm cái đúng, từ chối, từ bỏ cái lạc hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp với thời đại. “Đấy là sự vượt qua những lối mòn cũ kỹ để đi tìm cho được con đường mà dân tộc cần đi. Đấy là sự khẳng định một bản lĩnh, một khả năng suy nghĩ độc lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi. Đấy chính là bước ngoặt rất quan trọng khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước” [2, tr.11].
Cũng từ những năm tháng trên quê hương và sự ảnh hưởng của các giá trị văn hóa dân chủ, tiến bộ phương Tây, đặc biệt là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của cách mạng Pháp, cho nên và hẳn nhiên nước Pháp trở thành tâm điểm cuốn hút Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước. “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [4, tr.461]. Đây là một sự lựa chọn đúng đắn cả về hướng đi và cách đi so với những nhà cách mạng tiền bối, thể hiện sự nhạy cảm và sáng tạo độc đáo trong suy nghĩ và hành động của Nguyễn Tất Thành.
Từ năm 1911 đến năm 1920, suốt hành trình gần 10 năm khảo cứu con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin được công bố trên báo Nhân đạo ngày 16-17 tháng 7 năm 1920. Cùng thời gian đó, nhiều chí sĩ cách mạng cũng được tiếp xúc với luận cương của Lênin, nhưng chỉ Hồ Chí Minh, với nhãn quan chính trị sắc bén, tinh tường đã khẳng định “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta” [6, tr.562]. Hồ Chí Minh nhận thức được rằng cái mà dân tộc cần trước tiên không phải vũ khí, mà là cách thức đánh đuổi thực dân để cứu nước, là cách thức làm cách mạng, hay nói đúng hơn là phải có “lý luận và phương pháp cách mạng”. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và kết quả hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, sự nghiên cứu triệt để lý luận mácxít đã đem lại cho Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc về cách mạng và con đường cách mạng mà chưa có nhà hoạt động cách mạng nào có được - “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [6, tr.30]. 
3.2. Nhạy cảm với cái mới, linh hoạt trong việc thâu hóa các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại
Một trong những nhân tố làm nên sự vĩ đại của Hồ Chí Minh là sự nhạy cảm với cái mới, đầu óc phê phán tinh tường và linh hoạt trong việc tiếp biến các giá trị văn hóa. Chính nhờ các nhân tố chủ quan này, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc và nhân loại, làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được trang bị nền tri thức văn hóa Quốc học, Hán học và sớm tiếp thu những tri thức Tây học. Suốt hành trình 30 năm tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có mặt ở khắp các châu lục, đi qua gần 40 nước khác nhau trên thế giới và làm nhiều nghề để sống, để tranh đấu. Bằng con đường tự học, Hồ Chí Minh đã khiến thế giới kinh ngạc về trí tuệ mẫn tiệp, sự uyên bác từ mọi phương diện. Theo sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh tự học bằng việc mượn những cuốn sách nhỏ từ những người bạn làm việc trên tàu, học tiếng Pháp khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse, vào ngày nghỉ anh học tiếng Anh với một giáo sư người Ý. Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian và học với bất kỳ người nào, ngoài những cuộc đi xem để học, anh không thích chơi bời gì khác. Trong bản khai lý lịch dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã khai ở mục thứ 18, biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông, tiếng Ý và cả tiếng Đức.
Từ năm 1920, Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động lý luận sôi nổi. Người đã viết cuốn sách Những người bị áp bức (Les Opprimés) bằng tiếng Pháp và nhờ Marcel Cachin đề tựa, viết bài cho các báo Le Populaire, L’Humanité… Báo cáo của mật thám ngày 16/3/1920 còn cho biết: “Nguyễn Ái Quốc đang dịch một đoạn “L’ Esprit des Lois” (Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu sang quốc ngữ” và “Quốc chẳng được một Hội kín nào giúp đỡ. Ông ta rất tự trọng, muốn là do tự mình đảm nhận việc in sách bằng tiền để dành”. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation Francaise) được xuất bản tại Pháp năm 1925, nêu rõ tư tưởng và tinh thần chiến đấu của dân tộc và nhân dân Việt Nam… Rõ ràng, thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ đã xuất hiện nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước với nhiều quan điểm, hệ tư tưởng và đường lối cứu nước khác nhau. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ có Nguyễn Ái Quốc với nhận thức “tìm con đường mới” đã tiếp nhận, thâu hóa các giá trị tinh hoa của dân tộc và thời đại. Người đã hoạt động lý luận sôi nổi để hình thành nên những quan điểm lý luận làm nền tảng hoạt động cho cách mạng Việt Nam.
Hồ Chí Minh đã kết tinh các giá trị văn hóa Đông Tây - hai nền văn hóa lớn của nhân loại để làm giàu trí tuệ của mình. Sự kết tinh ấy không chỉ thể hiện trong nhận thức khi Hồ Chí Minh tự nhận mình là “người học trò nhỏ” của các bậc vĩ nhân đại diện cho tính đa dạng của nền văn minh nhân loại từ Khổng Tử, Giê su, Các Mác cho đến Tôn Trung Sơn… Năm 1968, khi làm việc về sách Người tốt, Việc tốt, Hồ Chí Minh viết: “Một người phải biết học nhiều người!” là một câu tổng kết rất có ý nghĩa. Đánh giá về trí tuệ uyên bác trong việc tiếp biến, thâu hóa tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại của Hồ Chí Minh, báo chí Bungari nhận định Hồ Chí Minh có “tầm hiểu biết uyên bác về châu Á”, nghĩa là Hồ Chí Minh đã thâu hóa những giá trị tinh hoa của văn hóa phương Đông, điển hình là Nho giáo, Phật giáo và Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn… Đại văn hào Pháp Vichto Huygô nói rằng: “Trước một trí tuệ uyên bác, thông thái thì tôi cúi đầu bái phục, còn trước một nhân cách cao cả thì tôi quỳ gối tôn thờ”. Hồ Chí Minh có cả hai điều đó: trí tuệ uyên bác nhân cách cao đẹp. Người thuộc về lớp người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống đời đời bất diệt, thể xác thì hữu hạn nhân cách thì trường tồn.
3.3. Tư duy tổng hợp, khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận động của cách mạng Việt Nam
Với vốn kiến thức sâu rộng từ nhiều nền văn hóa, lối tư duy tổng hợp, trí tuệ mẫn cảm và tầm nhìn chiến lược thiên tài, Hồ Chí Minh nắm vững quy luật vận động của xã hội và thực tiễn Việt Nam để từ đó vạch ra những dự báo lịch sử, quyết sách đúng đắn, định hướng, chỉ đạo sát hợp cho những bước phát triển và thành công của cách mạng Việt Nam.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều sĩ phu, văn thân, hào kiệt đã xác lập các con đường cứu nước, các phong trào yêu nước, chống giặc ngoại xâm nổ ra nhưng đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng đường lối giải phóng dân tộc. Trước tình cảnh đó, khác với xu hướng và con đường cứu nước của cha ông, gắn độc lập dân tộc với chế độ phong kiến, hoặc chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ quy luật vận động của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [5, tr.1], là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đó thực sự là sự lựa chọn đúng đắn thể hiện trí tuệ và tầm nhìn cách mạng của Hồ Chí Minh và điều đó đã được lịch sử cách mạng nước ta và nước khác trên thế giới trong thế kỷ XX chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
Về khả năng dự báo, từ tháng 2 năm 1942, tại mục“Những năm quan trọng” trong tác phẩm Lịch sử nước ta do, Hồ Chí Minh dự báo “1945 Việt Nam độc lập”. Ba năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta giành được độc lập, lịch sử cách mạng Việt Nam một lần nữa chứng minh tiên tri cách mạng của Hồ Chí Minh là hoàn toàn chính xác.
Trước Cách mạng Tháng Tám, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng nhiều nước, Hồ Chí Minh đã nhận định: “Nay cơ hội giải phóng đã đến rồi, đế quốc Pháp bên Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp ở ta. Đế quốc Nhật đã bị sa lầy ở Trung Hoa, lại đương gay go với Anh, Mỹ” [5, tr.299] và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941) nhận định: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước thành công. Đó là tiên tri lịch sử của Hồ Chí Minh và dự báo đó thành hiện thực lịch sử những năm giữa thế kỷ XX” [9, tr.329.].
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của dân tộc Việt Nam, mùa xuân năm 1947, Hồ Chí Minh chỉ thị cho bộ đội phải anh dũng chiến đấu và xây dựng cơ sở vững chắc trong đồng bào Tây Bắc, phải “đem được lá cờ đỏ sao vàng cắm trên đất Điện Biên Phủ”. Tháng 6 năm 1949, viết tác phẩm Giấc ngủ mười năm, với bút danh Trần Lực, Hồ Chí Minh đã dự đoán chiến thắng Điện Biên Phủ là “trận cuối cùng kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp” và trận ấy “hơn một vạn giặc chết và bị thương”. 5 năm sau, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, quân dân ta chiến thắng, dự báo của Hồ Chí Minh, thêm một lần nữa, lại đúng.
Đến thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong bản thảo Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 15 nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1960, Hồ Chí Minh dự báo “chậm lắm là 15 năm nữa Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một nhà”. Mười lăm năm sau, với đại thắng mùa xuân năm 1975 của quân dân ta, miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, sự báo của Hồ Chí Minh trở thành một hiện thực lịch sử…
Những dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh trong thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam đã thể hiện sự nắm vững quy luật vận động và phát triển của cách mạng Việt Nam và thế giới một cách khoa học và hiệu quả; những định hướng, những quyết sách ấy của Người đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và thành công của cách mạng Việt Nam. Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội - 1990), Tiến sĩ A.Atmet, Giám đốc Unesco khu vực Châu Á - Thái Bình Dương - đại diện đặc biệt của Tổng Giám đốc Unesco đã khẳng định: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ không chỉ là người giải phóng cho tổ quốc và nhân dân bị áp bức mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một tương lai hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này” [3, tr.28-29].
3.4. Trí tuệ uyên bác của một nhà văn hóa kiệt xuất với nhiều đóng góp về nhiều mặt trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chứng minh một sự thật hiển nhiên rằng, các dân tộc trong quá trình xây dựng và phát triển đã sản sinh biết bao nhân tài nhưng không phải bất cứ ai cũng trở thành vĩ nhân của dân tộc. Một con người được gọi là vĩ nhân khi có “tâm hồn lớn, tình yêu lớn, sáng tạo, có nghị lực và niềm tin lớn vào chân lý cuộc đời. Những giá trị tinh thần do người ấy sản sinh ra ảnh hưởng đến một thời đại, một giai đoạn dài lâu, có tác dụng biến đổi và thúc đẩy lớn lao, tạo nên vóc dáng mới cho con người, cho trí tuệ và nền văn hóa dân tộc phát triển theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử”. Hồ Chí Minh là một vĩ nhân của lịch sử Việt Nam và thế giới, con người tiêu biểu của văn hóa dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Năm 1923, trong bài Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc được đăng trên Báo Ogoniok (Liên Xô), số 39, ngày 23-12-1923, nhà báo Ôxip Mandenxtan đã nhận xét rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai... Qua cử chỉ cao thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương” [4, tr. 462-463]. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1990), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Người là một tấm gương sáng về hoạt động sáng tạo văn hóa, thể hiện sự uyên bác về tri thức cũng như đa dạng các hoạt động văn hóa của Người.
Trước hết, Hồ Chí Minh đã nhận thấy được sức mạnh của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng và đề ra những quan điểm, luận điểm về xây dựng một nền văn hóa mới nhằm “soi đường cho quốc dân đi”. Người chủ trương xây dựng nền giáo dục toàn diện, lấy chất lượng làm cốt, hướng đến việc phát triển toàn diện con người. Trong đó, phương pháp giáo dục phải phù hợp, dân chủ, lấy nêu gương và giáo dục tinh thần tự học làm nền tảng, đồng thời phải huy động mọi lực lượng tham gia giáo dục và đào tạo con người.
Là chủ thể sáng tạo văn hóa, Hồ Chí Minh đã làm chủ được nhiều ngôn ngữ khác nhau trong viết văn, viết báo, làm thơ, luận bàn chính trị và hoạt động văn hóa... Người là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại với hơn 250 bài thơ, khoảng 2000 bài báo, nhiều truyện ngắn, văn chính luận, tiểu phẩm văn học… Những bài thơ chúc tết đầy sức sống, những lời hiệu triệu mạnh mẽ hùng hồn; những thành tựu văn chương đặt nền móng cho nền văn xuôi hiện thực mới; những bài báo ngắn gọn, súc tích góp phần thức tỉnh dân tộc, phản ánh sức sáng tạo văn chương, nghệ thuật ở Người. Chính những cống hiến to lớn đó, Nghị quyết của UNESCO đánh giá: “Sự đóng góp về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự hiểu biết lẫn nhau” [8].
4. KẾT LUẬN
Với nhân cách cao đẹp, trí tuệ uyên bác, Hồ Chí Minh trở thành tấm gương để Đảng ta, dân tộc ta và nhân dân ta noi theo. Nhờ sự khổ công học tập, tôi luyện và trưởng thành qua thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh đã qua vượt qua sự hạn chế về mặt lý luận và phương pháp cách mạng của các bậc tiền bối, để tìm ra con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Những dự báo thiên tài, được hiện thực hóa thành công qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng với cống hiến to lớn về văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, Hồ Chí Minh xứng đáng là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam, là người thầy mẫu mực về nhân cách trí tuệ, là tấm gương sáng ngời cho chúng ta noi theo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá trình phát triển lực lượng sản xuất. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải tích cực, chủ động, tự học, học thường xuyên, học suốt đời để chiếm lĩnh được hệ thống tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, học tập và rèn luyện theo tấm gương nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ để vươn lên góp phần xây dựng nước ta trở thành một nước giàu mạnh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]              Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (2009). Vàng trong lửa - Chủ tịch Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
[2]              Đặng Xuân Kỳ (1990). Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
[3]              M. Atmet (1995). “Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do, độc lập”, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc tế Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[4]              Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[5]              Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6]              Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]              Đỗ Long (2008). Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lý học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8]              UNESCO (1987). Nghị quyết 24C/18.65 của Đại hội đồng UNESSCO khóa 24-1987 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[9]       Dương Trung Quốc (2001), Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

(Bài báo đăng Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường ĐHSP Huế, Số 2 (34) năm 2015)

Không có nhận xét nào:

Tìm kiếm Blog này