Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
DÂN CHỦ
TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI
TRONG XÂY DỰNG XÃ HỘI MỚI
NGUYỄN VĂN QUANG
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt:
Trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác lập một hệ thống các quan điểm về dân chủ và hiện
thực hóa những quan điểm đó trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các
lĩnh vực. Tư tưởng của Người về dân chủ đã trở thành một bộ phận văn hóa của
dân tộc Việt Nam. Người xứng đáng với danh hiệu “Nhà thực hành dân chủ vĩ đại
của thế kỷ XX”.
1.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh có cơ sở vững chắc là tư tưởng dân chủ của dân tộc
Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại, được kết tinh qua hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước; những giá trị dân chủ của văn hóa phương Đông và phương Tây,
đặc biệt là lý tưởng giải phóng dân
tộc gắn với giải phóng xã hội, giải phóng con người, làm cho toàn thể nhân dân
được sống trong một xã hội dân chủ thực sự của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Trong
hoạt động lý luận của mình, Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ “dân chủ” khoảng
1400 lần trong Hồ Chí Minh Toàn tập, xuất hiện lần đầu tiên trong bài Phong trào Cộng sản quốc tế được Người đăng trên báo Le Paria năm 1921. Trả
lời câu hỏi “Dân chủ là như thế nào?”
Người đã viết: “Là dân làm chủ”. “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà là
do dân làm chủ, chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân dân làm chủ”. Để luận
giải rõ quan niệm dân chủ, Người còn viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu
lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây
dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của
dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến
xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” [5;
tr.232], hay như “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là
chủ” [6, tr.434]. Như vậy, Hồ Chí Minh định nghĩa dân chủ là “dân là chủ” và
“dân làm chủ”. Định nghĩa này của Người đã khắc phục được những nhược điểm của
tất cả các định nghĩa và quan niệm về dân chủ trong lịch sử và có ý nghĩa to
lớn trong công cuộc xây dựng xã hội mới ở Việt Nam.
2.
Tư tưởng dân chủ Hồ Chí Minh trong xây dựng xã hội mới gồm những nội dung có
giá trị lý luận và thực tiễn vô cùng sâu sắc đối với cách mạng Việt Nam qua các
thời kỳ.
- Dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Quan
điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ trong chính trị được thể hiện ở việc khẳng định
quyền lực của nhân dân trong Hiến pháp và pháp luật; đảm bảo tổ chức nhà nước
dân chủ của dân, do dân và vì dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân,
vì dân là chủ” [6, tr.434].
Quan niệm địa vị cao nhất là dân được
Hồ Chí Minh giải thích rất ngắn gọn “dân là chủ”, mọi quyền hành và lực lượng
là của nhân dân, mọi công việc đều do dân và do đó thành quả của nền dân chủ mới
thuộc về đại đa số quần chúng nhân dân chứ không phải của bất cứ một số ít dân
cư nào. Vấn đề là chủ, làm chủ của
nhân dân, của các giai tầng trong xã hội được pháp điển hóa trong các bản Hiến
pháp (1946 và 1959). Hiến pháp năm 1946 bảo đảm “Quyền tư hữu tài sản của công
dân Việt Nam” (Điều 12), “Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay”
(Điều 13). Hiến pháp năm 1946 còn tuyên bố: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có
quyền cao nhất nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa” (Điều 22), Ban Thương vụ Nghị
viện có quyền “kiểm soát và phê bình Chính phủ” (Điều 36)… Quan điểm “quyền lực
thuộc về nhân dân” còn được Hồ Chí Minh nói rõ trong bản Hiến pháp năm 1959.
Điều 6 của bản Hiến pháp này nêu rõ: “Tất cả các cơ quan Nhà nước là phải dựa
vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm
soát của nhân dân...”.
Những
quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Hiến pháp dân chủ, xác định quyền làm chủ
của nhân dân trong thực tiễn là những quan điểm căn bản cho việc xây dựng mặt
vật chất của hệ thống chính trị dân chủ ở nước ta, thể hiện qua việc xây dựng
Nhà nước dân chủ của dân, do dân và
vì dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nhà nước của dân là nhà nước trong đó dân là chủ; dân là người có
địa vị cao nhất, có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước,
dân tộc. Người khẳng định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo”. Nhà nước do dân nghĩa là dân
làm chủ nhà nước; nhà nước phải tin dân và dựa vào dân. Nội dung quyền làm
chủ nhà nước của dân được thể hiện: Nhân dân là người tổ chức nên các cơ quan
nhà nước từ trung ương đến địa phương thông qua thực hiện chế độ tổng tuyển cử
phổ thông. Nhân dân có quyền bầu cử, ứng cử, đồng thời có quyền thực hiên chế
độ bãi miễn. Người viết: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính
phủ” [4; tr.75]. Nhà nước vì dân là
nhà nước phục vụ nhân dân, đem lại lợi ích cho nhân dân. Điều này được Người
giải thích: Nhà nước phục vụ nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và
hoạt động theo một mục tiêu cao nhất và duy nhất là không ngừng cải thiện và
nâng cao đời sống của nhân dân đúng với phương châm “Việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì hại đến dân phải hết sức tránh”. Nhà nước phải chăm lo mọi mặt đời sống của nhân dân,
thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm
cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành, làm cho dân có điều kiện khám chữa
bệnh, chăm sóc sức khoẻ…
Bản chất dân chủ
của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được Đại hội X xác định rất rõ:
“Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là người tổ chức
thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số nhân dân. Nhân dân
không chỉ có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các
chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước” [1; tr.44].
- Hai là, dân chủ trong lĩnh vực
kinh tế
Theo quan điểm
của V.I. Lênin “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế”, dân chủ trong
lĩnh vực chính trị phải lấy dân chủ trong lĩnh vực kinh tế làm cơ sở. Chính vì
vậy, dân chủ trong lĩnh vực kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
thực hiện dân chủ. Dân chủ trong lĩnh vực kinh tế được biểu hiện ở ba nội dung
cơ bản: dân chủ về về sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản
xuất và phân phối sản phẩm
lao động.
Từ thực tiễn Việt Nam quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp
lạc hậu nên Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Việt Nam cần phải xây dựng chế độ
dân chủ mới, với một nền kinh tế nhiều thành phần (5 loại hình
kinh tế): Kinh
tế quốc doanh (thuộc chủ nghĩa xã hội, vì nó là của chung của nhân dân); Các
hợp tác xã (nó là nửa chủ nghĩa xã hội, và sẽ tiến đến chủ nghĩa xã hội); Kinh
tế của cá nhân, nông dân và thủ công nghệ (có thể tiến dần vào hợp tác xã, tức
là nửa chủ nghĩa xã hội); Tư bản của tư nhân; Tư bản của nhà nước (như Nhà nước
hùn vốn với tư bản tư nhân để kinh doanh)” [7; tr.294]. Đồng thời, phải tạo lập
những hình thức sở hữu dân
chủ ở nước ta, đó là: “Sở hữu của Nhà nước, sở hữu của hợp tác xã tức, sở
hữu của những người lao động riêng lẻ và một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu
của nhà tư bản” [10; tr.372].
Điều 11 Hiến
pháp nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (năm 1959) khẳng định: “Ở nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản
xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân, hình thức
sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động,
hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư
sản dân tộc” [2; tr.29]. Việc
xác định các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu được thể hiện trong
Hiến pháp Việt Nam năm 1959 là sự thể hiện nhất quán tư tưởng dân chủ kinh tế
của Hồ Chí Minh, là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng dân chủ kinh tế
quan trọng trong Hiến pháp 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên và đi vào lịch sử thể
chế ở nước ta do Người đích thân tổ chức chỉ đạo việc soạn thảo.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong kinh tế còn được thể hiện trong việc tổ chức và quản lý sản xuất. Tư tưởng
này của Người thể hiện trước hết ở việc hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý
nhằm tạo nên sự phát triển cân đối giữa các ngành kinh tế (công nghiệp, nông
nghiệp và thương nghiệp); giữa các vùng kinh tế (thành thị - nông thôn, miền
xuôi - miền núi, vùng tự do, vùng địch tạm chiếm). Một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ
tạo cơ sở nền tảng vững chắc để thực hiện công bằng, bình đẳng và ổn định xã
hội, phát triển bền vững.
Quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình sản xuất còn
được thể hiện ở vai trò chủ thể của người lao động trong tổ chức và quản lý sản
xuất. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Vai trò của công nhân tham gia quản lý, đó là biểu
hiện quyền làm chủ tập thể của công nhân, viên chức trong mọi hoạt động của xí
nghiệp” [13; tr.683]. Người còn nhấn mạnh: “muốn thực hiện đúng vai trò làm
chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm
cho năng suất lao động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều với
phẩm chất tốt, giá thành hạ” [13; tr.678]. Biểu hiện quyền làm chủ trong sản xuất là sự tham gia của nhân dân vào quản
lý và xây dựng kế hoạch. Hồ Chí Minh nói rõ: “quản lý phải dân chủ”, xây dựng
kế hoạch “không định theo cách quan liêu, mà phải liên hệ chặt chẽ với tình
hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta” [6;
tr.365]. Trong xây dựng và thực thi kế hoạch phải bàn bạc dân chủ và phải tính
toán cho công bằng, hợp lý” [10, tr.538]. Trong quản lý phải “dân chủ, công
bằng, minh bạch”, “phải chí công vô tư, tài chính phải công khai” [12; tr.341].
Chủ
tịch Hồ Chí Minh không chỉ chú ý đến dân chủ trong sở hữu tư liệu sản xuất, tổ
chức và quản lý sản xuất, mà Người còn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc thực
hiện công bằng trong phân phối sản phẩm lao động.
“Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân phối nhiều, lao
động ít thì được phân phối ít” [12; tr.216], nếu không phân phối cho công bằng
hợp lý thì sẽ rơi vào chủ nghĩa bình quân. Chủ nghĩa bình quân sẽ làm “thui
chột” sự hăng hái, nhiệt tình và khả năng sáng tạo của nhân dân. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh
nói rõ quan điểm của mình về phân phối sản phẩm xã hội: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng” [13; tr.224].
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế chứa đựng nhiều nội dung phong phú, luôn
hướng đến việc phát huy vai trò và quyền làm chủ của nhân dân trong kinh tế,
trong hoạt động sản xuất - kinh doanh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, quyền làm chủ đó được thể hiện ở quyền làm chủ của nhân dân đối
với tư liệu sản xuất, trong quản lý kinh tế và trong lĩnh vực phân phối sản
phẩm lao động nhằm phát huy mọi năng lực của người dân trong công việc xây dựng
và phát triển kinh tế.
- Ba là, dân chủ trong lĩnh vực văn
hóa - xã hội
Trong
tư tưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Văn hóa phụng sự nhân
dân, lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở”, “nhân dân có quyền
sáng tác và thụ hưởng thành quả của mình”. Theo đó, văn hóa phải trở về với
sinh hoạt thực tại của con người; phải miêu tả cho hay, cho thật, cho hùng hồn.
Để làm được điều đó, phải có cách viết phù hợp với trình độ đa số của đồng bào.
Người luôn nhắc nhở giáo dục, tuyên truyền, viết báo hay hoạt động nào khác
phải căn cứ vào “trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh
nghiệm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng” [4;
tr.288].
Để
văn hóa thực sự phục vụ quần chúng nhân dân, ngoài việc đi vào quần chúng cổ động,
biểu dương sự nghiệp cách mạng của nhân dân, đánh giá đúng nhân dân vì “chỉ có nhân dân mới nuôi dưỡng cho sáng tác
của nhà văn bằng những nguồn nhựa sống”. Quần chúng nhân dân không chỉ là
người sáng tạo ra của cải vật chất còn là sáng tác nữa, tục ngữ, ca dao, hò vè là
những “hòn ngọc quý”, vừa rất hay lại rất ngắn chứ không “trường thiên đại hải,
dây cà ra dây muống”. Với tinh thần đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cách
làm việc, cách tổ chức, nói chuyện, tuyên truyền, khẩu hiệu, viết báo của chúng
ta đều phải lấy câu này làm khuôn phép: Từ trong quần chúng ra. Về sâu trong
quần chúng” [4; tr.288].
Bên cạnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhân dân là
chủ thể sáng tạo ra các tác phẩm văn hóa nghệ thuật và nhân dân có quyền thụ
hưởng thành quả của mình. Phát huy dân chủ trong văn hóa nghệ thuật theo Hồ Chí
Minh là phải lấy dân để khai thác, hình thành các tác phẩm đồng thời phải phục
vụ nhân dân. Nhân dân có quyền đánh giá các tác phẩm văn học nghệ thuật cũng
như có quyền thụ hưởng giá trị của các tác phẩm đó. Quan điểm đó thể hiện rõ
tính dân chủ của tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động văn hóa - xã hội.
- Bốn là, dân chủ trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng xây dựng một nền
giáo dục mới trong xã hội dân chủ mới thì mọi người Việt Nam đều phải được giáo
dục, phải có kiến thức để tham gia vào công cuộc kiến thiết nước nhà. Người rất
quan tâm đến thế hệ trẻ, đặc biệt là thiếu niên và nhi đồng, vì đó là trụ cột
của nước nhà. Đào tạo thế hệ trẻ là đào tạo thế hệ tương lai cho Tổ quốc. Trong Lời kêu gọi chống nạn thất học (10/1945),
Người đã nói: “Mọi người Việt Nam phải hiểu hết quyền lợi của mình, bổn phận
của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ” [3; tr.40]. Tư tưởng
này của Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
đã được Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua và công bố vào ngày 10/12/1948.
Điều 1 của Tuyên ngôn ghi rõ: “Mọi người sinh ra
đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và quyền” và Điều 26: “Mọi người đều
có quyền được giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí, ít nhất là ở bậc tiểu học
và căn bản. Giáo dục tiểu học phải bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp
phải được mở rộng và giáo dục đại học phải được mở rộng bình đẳng cho mọi
người, trên căn bản tài năng xứng đáng”.
Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định giá trị dân chủ và bình đẳng
cho mọi công dân của một nước Việt Nam độc lập, mà còn chú trọng pháp điển hoá
quyền bình đẳng ấy. Trong Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (1946) do
Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, Điều thứ 6 và 7 ghi rõ: “Tất
cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế,
văn hoá”, “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được
tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của
mình”. Người còn lưu ý rằng: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân
thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều thứ 8).
Dân
chủ trong giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở việc đảm bảo
quyền bình đẳng nam nữ trong giáo dục và đào tạo. Trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vị trí và vai trò của
người phụ nữ, Người khẳng định: “Non sông gấm vóc Việt Nam, do phụ nữ ta trẻ
cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ” [6; tr.340], “nếu không
giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người”, “nếu không giải
phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa” [11; tr.300]. Tuy nhiên,
khi nhận thấy giáo dục nước nhà chưa thật sự quan tâm đến người phụ nữ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kiểm điểm: “trong giáo dục, y tế, các ngành khác, số phụ nữ
đều thấp”, vì vậy“giáo dục phải cố gắng để phụ nữ nhiều hơn” [9; tr.344]. Trong
bài Nói chuyện tại Đại hội giáo dục phổ
thông toàn quốc (3/1956), Người nhắc nhở: “công tác giáo dục phần nhiều
phải do phụ nữ đảm nhiệm. Muốn phụ nữ đảm nhiệm, thì phải bồi dưỡng cho phụ nữ”
[9; tr.289]. Người luôn động viên, khuyến khích
chị em chịu khó học tập để có khả năng làm chủ đất nước, đảm nhiệm những công
việc như nam giới. Trong xã hội mới “phụ
nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm. Đây là lúc các chị em phải
cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền
bầu và ứng cử” [3; tr.41].
Tư tưởng “nam nữ bình
quyền” của Hồ Chí Minh được ghi trong Chánh
cương vắn tắt của Đảng và sớm được thể chế hoá trong Điều thứ 9 của bản
Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp ghi: “Đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện”. Hiến pháp nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà (1959), tiếp tục khẳng định: “Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà đều bình đẳng trước pháp luật” (Điều 22), “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền học
tập. Nhà nước thực hiện từng bước chế độ giáo dục cưỡng bách, phát triển dần
các trường học và cơ quan văn hoá, phát triển các hình thức giáo dục bổ túc văn
hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, tại các cơ quan, xí nghiệp và các tổ chức khác ở
thành thị và nông thôn, để bảo đảm cho công dân được hưởng quyền đó” (Điều 33).
Thông
qua hai bản Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà năm 1946 và 1959, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền bình đẳng của mọi công dân Việt Nam trên
tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là giáo dục và đào tạo. Đó là biểu hiện của một
nền dân chủ thực sự - dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Trên
cơ sở tiếp thu quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định rằng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp,
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, nhà trường và các lực
lượng xã hội. Mỗi thành phần trong lực lượng đó đều có vai trò, vị trí quan
trọng khác nhau nhưng cần có sự hợp lực, thống nhất trong quá trình giáo dục và
đào tạo thế hệ trẻ. Người đặc biệt nhấn mạnh phát huy mối liên hệ mật thiết
giữa nhà trường - gia đình - xã hội trong giáo dục và đào tạo. Điều này được
thể hiện trong bài nói của Người tại Hội
nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục (6/1957): “Giáo dục trong nhà trường dù tốt
mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không
thu được hoàn toàn” [9; tr.591]. Trong Thư gửi cán bộ, thầy giáo, cô giáo, học sinh
nhân dịp khai giảng năm học mới, Người khẳng định: “Giáo dục là sự nghiệp
của quần chúng, cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa… Do đó các
ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến
sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục
của ta lên những bước phát triển mới” [13; tr.508]. Người còn lưu ý rằng: “trường học, gia
đình và đoàn thể thanh niên phải liên hệ chặt chẽ trong giáo dục thanh niên” [8; tr.266].
Quan
điểm trên thể hiện tầm nhìn chiến lược của chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị xã
hội đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chính sự thành công trong giáo dục
và đào tạo là điều kiện vững chắc đảm bảo xây dựng một nền dân chủ mới, gấp
triệu lần dân chủ tư sản.
3. Tư tưởng dân chủ Hồ Chí
Minh trong xây dựng xã hội mới là một trong những đóng góp to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới. Đó là sản phẩm
kết tinh từ quá trình nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn cách mạng Việt
Nam và thế giới; được hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo trong thực
tiễn Việt Nam qua hai cuộc cách mạng dân tộc dân chủ và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các vấn
đề dân chủ và thực hành dân chủ. Những kiến giải sáng tạo của Người, có ý nghĩa
soi đường cho cách mạng Việt Nam, cho Đảng ta trong việc phát huy hơn nữa dân
chủ trong thời kỳ hội nhập và phát triển.
Từ quan điểm của Hồ Chí Minh dân
chủ là một trong những thước đo của sự phát triển và tiến bộ xã hội, Đảng và
Nhà nước ta hết sức quan tâm đến vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ, nhiều chủ
trương, chính sách để tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong đời sống xã hội
được thực thi và đạt kết quả khả qua. Vận dụng tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh
vào việc phát huy dân chủ ở cơ sở ở nước ta có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to
lớn, góp phần trực tiếp vào việc nâng cao ý thức dân chủ, năng lực thực hành
dân chủ của cán bộ đảng viên và quần chúng nhân dân ngay từ cơ sở. Đảm bảo dân
chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng, bằng cách đó, xây dựng Đảng trong sạch vững
mạnh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì
dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ là vấn đề có tính thời sự,
chứa đựng nhiều giá trị, bài học kinh nghiệm quý báu. Đó là những chỉ dẫn quan
trọng để Đảng, Nhà nước, nhân dân ta tiếp tục nghiên cứu làm rõ, hướng đến xây
dựng một xã hội mới dân chủ, công bằng, tiến bộ, văn minh.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng
Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
[2] Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992, Nxb Thống Kê, Hà Nội, 2007.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[8] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2011.
[9] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
[10] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
[11] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
[12] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
[13] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011.
(Bài báo đã đăng tại Tạp chí Khoa học Đại học Huế, số 3, 2015)
NÉT ĐẬC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
NÉT ĐẬC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN VĂN
QUANG
Trường Đại học
Sư phạm - Đại học Huế
Tóm tắt: Nhân cách Hồ
Chí Minh là những phẩm chất và năng lực của một anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà
văn hóa kiệt xuất, nhà hoạt động chính trị, lãnh tụ của Đảng Cộng sản và dân tộc
Việt Nam. Một trong những biểu hiện của đặc trưng nhân cách Hồ Chí Minh là sự
uyên bác về trí tuệ, được biểu hiện qua mẫn cảm chính trị, nhãn quan chính trị
thiên tài và khả năng dự báo thiên tài về các vấn đề liên quan đến cách mạng Việt
Nam.
Từ khóa: Nhân cách, Hồ
Chí Minh, trí tuệ
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động chính trị lỗi lạc
của cách mạng Việt Nam, mà còn là một chiến sĩ cống hiến không mệt mỏi cho hòa bình, hữu nghị và hợp tác
giữa các dân tộc; một nhà tư tưởng, nhà lý luận, nhà văn hóa ghi dấu ấn trong
lịch sử phát triển nhân loại… Nhân cách Hồ Chí Minh được kết tinh từ truyền
thống văn hóa - giáo dục của gia đình, quê hương, đất nước; từ sự tác động đa chiều của điều kiện văn hóa, xã hội, lịch sử và con người
của dân tộc và thời đại; từ giáo
dục của nhà trường và quá trình tự giáo dục của bản thân, sự khổ công tu dưỡng,
rèn luyện; từ tư chất, năng lực của con người Hồ Chí Minh; từ ảnh hưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của các học thuyết, tư tưởng tiến bộ của nhân loại; từ gương
sáng của các nhà hoạt động chính trị tiến bộ, nhà văn hóa trên thế giới.
Nhân cách
Hồ Chí Minh là kết quả của quá trình tự ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền
giáo dục, trước hết là gia đình với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện
sống của môi trường và xã hội xung quanh, không khí tư tưởng - chính trị đương
thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục ý chí kiên cường bất khuất. Nhân cách Hồ
Chí Minh được định hình, bồi đắp và không ngừng hoàn thiện trong cuộc đấu tranh
kiên cường, bền bỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người để hướng con người tới giá trị chân, thiện, mỹ.
Với những
đặc trưng về trí tuệ, phẩm chất, năng lực và phong cách, nhân cách Hồ Chí Minh
có giá trị to lớn trong việc soi sáng con đường phát triển của dân tộc, định
hướng xây dựng con người mới và sự tu dưỡng không ngừng nghỉ của nhiều thế hệ
người Việt Nam. Nhân cách bao gồm nhiều mặt, tuy nhiên, trong bài viết này,
chúng tôi tập trung vào mặt trí tuệ của nhân cách Hồ Chí Minh.
2. TRÍ
TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
2.1. Nhân cách
Nhân cách
là một chủ đề được nghiên cứu từ rất sớm ở cả phương Đông và phương Tây. Khổng
Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Trong
đó Nhân là gốc. Ở phương Tây, B.G.Ananhiep cho rằng nhân cách là cá thể có tính
chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng bước tiến lịch sử. Học giả
X.L.Rubinstein coi nhân cách là ý thức và thái độ của chủ thể đối với thế giới
xung quanh, người khác và chính bản thân.
Ở Việt
Nam, thuật ngữ nhân cách được luận giải theo nhiều góc độ khác nhau: (1) Nhân
cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng lực hoặc là
con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động); (2) Nhân cách
được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người; (3) Nhân cách được hiểu
như phẩm chất của con người mới: làm chủ, yêu nước, nhân ái, tinh thần quốc tế
vô sản, tinh thần lao động; (4) Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị
làm người của con người… Trong công trình Tâm
lý học đại cương, Nguyễn Quang Uẩn xác định nhân cách là tổ hợp những đặc
điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội
của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không phải các đặc điểm cá thể của con
người mà chỉ là những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã
hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá
nhân. Từ điển tiếng Việt ghi rõ nhân
cách là “tư cách và phẩm chất con người” và “phẩm chất” đó được Hồ Chí Minh nêu
rõ là các “tư cách của người cách mạng với 23 điều ngắn gọn, thuộc về ba cách
ứng xử của người cách mạng với: chính bản thân, với người khác và với công
việc.
Từ sự
luận dẫn các quan niệm, quan điểm nêu trên, có thể khẳng định: Nhân cách là hệ thống những phẩm giá
của một người được hình thành và phát triển trong tương tác giữa con người với
xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con
người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc.
2.2. Nhân cách Hồ Chí Minh
Dưới góc
độ tâm lý học, “Nhân cách của Hồ Chí Minh không tách rời quá trình hình sự tự ý
thức, ý thức về sứ mệnh của chính mình mà nền giáo dục, trước hết là ở gia đình
với người cha giàu lòng yêu nước, điều kiện sống của môi trường và xã hội xung
quanh, không khí tư tưởng - chính trị đương thời ở một xứ sở bao giờ cũng sôi sục
ý chí kiên cường bất khuất”[7, tr.8]. Theo cách tiếp cận này, nhân cách Hồ Chí
Minh có thể hiểu là “sự tự ý thức về bản thân mình đối với cuộc sống do những
tác động đa chiều của thực tiễn xã hội”. Nhà nghiên cứu Mạch Quang Thắng khái
quát Nhân cách Hồ Chí Minh là: “chuẩn mực giá trị của dân tộc Việt Nam và thời đại Hồ
Chí Minh”. Nhà văn học Đức Eđuard Claudius (1911-1976) cho rằng nhân cách Hồ
Chí Minh là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, sự thống nhất giữa hoạt
động và nhân cách chính trị với thái độ rất giản dị, khiêm tốn, nhân hậu.
Xét về
nội dung, nhân cách Hồ Chí Minh được biểu hiện qua các biểu hiện như: Ưu tiên
đạo đức; Tận tụy quên mình; Kiên trì, bất khuất; Khiêm tốn, giản dị; Hài hòa,
kết hợp; Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; Yêu thiên
nhiên, hòa hợp với thiên nhiên. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi viết về nhân
cách Hồ Chí Minh đã nêu lên một nội dung quan trọng - một thuật ngữ khoa học là
“chất Người” trong nhân cách Hồ Chí Minh. Theo Phạm Minh Hạc, nhân cách Hồ Chí
Minh chính là 23 giá trị nhân cách đúc kết trong những thành tố tiểu cấu trúc
nhân cách bao gồm: “Tâm, tài, lực”… về sau khái quát thành lý thuyết “cấu trúc
vĩ mô của nhân cách bao gồm tài, đức”, trong đó đức là gốc.
Từ các
cách tiếp cận nhân cách Hồ Chí Minh nêu trên, có thể hiểu: Nhân cách Hồ Chí Minh là những phẩm chất, năng lực, lý tưởng, ý chí
kiên cường, trí tuệ sáng suốt và tầm nhìn xa của một nhà chính trị thiên tài,
có sức hấp dẫn, lôi cuốn mạnh mẽ đối với quần chúng, được thể hiện qua phong
cách, lối sống của Người. Nhân cách Hồ Chí Minh là biểu trưng sáng ngời về phẩm
chất và năng lực con người Việt Nam.
2.3. Trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh
Cho đến nay, các nhà khoa học Việt Nam và thế giới tiếp cận
nhân cách Hồ Chí Minh tập trung chủ yếu vào khía cạnh “đạo đức” - phần “phẩm
chất” nhiều hơn là khía cạnh “trí tuệ” - phần “năng lực”. Do đó, hiện nay vẫn
chưa có khái niệm “nhân cách Hồ Chí Minh về trí tuệ”, cũng như chưa xác định
nội hàm “trí tuệ” trong nhân cách Hồ Chí Minh.
Hồ Chí
Minh - vị lãnh tụ thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người không chỉ sáng ngời
về phẩm chất đạo đức, phương pháp, phong cách và lối sống, mà còn là hình tượng
mẫu mực về trí tuệ uyên bác, nhãn quan sắc bén và am tường nhiều giá trị văn
hóa dân tộc và thế giới.
Từ khái niệm nhân cách (2.1) và nhân cách Hồ Chí Minh
(2.2), ta có thể hiểu trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh là những năng lực đặc
biệt của Hồ Chí Minh, được thể hiện qua sự uyên bác về trí tuệ, lối tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, mẫn cảm với cái mới, khả năng tiếp biến và thâu hóa các
giá trị văn hóa, nhãn quan chính trị sắc bén và tầm nhìn chiến lược của một
thiên tài.
3. NÉT ĐẶC SẮC VỀ TRÍ TUỆ TRONG NHÂN CÁCH HỒ CHÍ MINH
Nét đặc
sắc về trí tuệ trong nhân cách Hồ Chí Minh được thể hiện rất phong phú. Từ kết
quả nghiên cứu, chúng tôi khái quát những nội dung như: sự uyên bác về trí tuệ,
nhãn quan chính trị sắc bén; mẫn cảm với cái mới, khả năng thâu hóa các giá trị
tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại; khả năng dự báo và nắm vững quy luật vận
động của cách mạng Việt Nam…
3.1. Trí tuệ
mẫn tiệp, nhãn quan chính trị thiên tài trong việc lựa chọn con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc
Với khả
năng tư duy độc lập, linh hoạt, sáng tạo, nhãn quan chính trị thiên tài, Hồ Chí
Minh đã vượt qua “sự hạn chế” về tầm nhìn và phương pháp đấu tranh của các chí
sĩ như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… trong việc tìm kiếm con đường cứu nước
và giải phóng dân tộc. Người đã xác định đúng phương hướng và phương thức cứu
nước, kiên trì và dũng cảm thực hiện lý tưởng cao đẹp giành độc lập cho dân tộc,
tự do, hạnh phúc cho nhân dân.
Ở độ tuổi
thanh thiếu niên, Hồ Chí Minh đã chứng kiến những làn sóng đấu tranh mạnh mẽ
của dân tộc, từ bậc vua quan trung thần, nghĩa sĩ cho đến quần chúng nhân dân
đang bị đọa đày đau khổ. Năm 1908, Người thấy rõ hạn chế “chưa biết tổ chức và
chưa có tổ chức” từ sự thất bại của phong trào kháng thuế của nhân dân Trung kỳ.
Thất bại của các cuộc kháng Pháp do các sĩ phu yêu nước khởi xướng, đến xu
hướng cứu nước mới của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đã giúp Hồ Chí Minh thấy
con đường cách mạng, phương pháp đấu tranh của các bậc tiền bối không phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam, ý thức hệ phong kiến và tư sản “không có khả
năng vạch ra giải pháp đấu tranh phù hợp với hoàn cảnh lịch sử và xu thế phát
triển của thời đại”. Hồ Chí Minh khâm phục họ nhưng không tán thành con đường
cứu nước nào, cũng như từ chối con đường Đông Du theo lời mời gọi của cụ Phan
Bội Châu vào năm 1905, vì theo Hồ Chí Minh, con đường cứu nước của Hoàng Hoa
Thám còn nặng cốt cách phong kiến đã không thể dẫn tới thắng lợi, con đường cầu
viện Nhật Bản của Phan Bội Châu chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa
sau”, còn con đường cải lương của Phan Châu Trinh chẳng khác gì “xin giặc rủ
lòng thương”. Đúng như Trần Văn Giàu nhận định “Nguyễn Tất Thành không đi Phồn
Xương, tuy đó là con đường ngắn nhất. Không đi Nhật, tuy có các bậc chú bác
khuyến khích. Không đi Hoa Nam, tuy ở đó có cách mạng Tân Hợi đang bước vào
giai đoạn “cử đồ đại sự”. Trong ba đường ấy, Nguyễn Tất Thành không chịu một
con đường nào” [1, tr.81].
Từ sự
phân tích trên ta có thể thấy, Hồ Chí Minh có một “cái nhìn khác”, một nhãn
quan đầy sức phê phán trong nhận thức về kẻ thù và con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã mạnh dạn “khước từ” cái sai để đi tìm cái đúng,
từ chối, từ bỏ cái lạc hậu, lỗi thời để đi tìm cái tiên tiến, phù hợp với thời
đại. “Đấy là sự vượt qua những lối mòn cũ kỹ để đi tìm cho được con đường mà
dân tộc cần đi. Đấy là sự khẳng định một bản lĩnh, một khả năng suy nghĩ độc
lập và sáng tạo mà lịch sử đang đòi hỏi. Đấy chính là bước ngoặt rất quan trọng
khi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước” [2, tr.11].
Cũng từ
những năm tháng trên quê hương và sự ảnh hưởng của các giá trị văn hóa dân chủ,
tiến bộ phương Tây, đặc biệt là tư tưởng “Tự do, Bình đẳng, Bác ái” của cách
mạng Pháp, cho nên và hẳn nhiên nước Pháp trở thành tâm điểm cuốn hút Hồ Chí
Minh trong hành trình tìm đường cứu nước. “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi
được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái... Tôi rất muốn làm quen với nền
văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy” [4, tr.461].
Đây là một sự lựa chọn đúng đắn cả về hướng đi và cách đi so với những nhà cách
mạng tiền bối, thể hiện sự nhạy cảm và sáng tạo độc đáo trong suy nghĩ và hành
động của Nguyễn Tất Thành.
Từ năm 1911 đến năm
1920, suốt hành trình gần 10 năm khảo cứu con đường cứu nước, Hồ Chí Minh đến
với chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua bản Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của V. I. Lênin được công bố trên báo Nhân
đạo ngày 16-17 tháng 7 năm 1920. Cùng thời gian đó, nhiều chí sĩ cách mạng cũng
được tiếp xúc với luận cương của Lênin, nhưng chỉ Hồ Chí Minh, với nhãn quan
chính trị sắc bén, tinh tường đã khẳng định “đây là cái cần thiết cho chúng ta,
đây là con đường giải phóng chúng ta” [6, tr.562]. Hồ Chí Minh nhận thức được
rằng cái mà dân tộc cần trước tiên không phải vũ khí, mà là cách thức đánh
đuổi thực dân để cứu nước, là cách thức làm cách mạng, hay nói đúng hơn là phải
có “lý luận và phương pháp cách mạng”. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười
Nga vĩ đại và kết quả hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế, sự nghiên cứu triệt để lý luận mácxít đã đem lại cho Hồ Chí Minh
nhận thức sâu sắc về cách mạng và con đường cách mạng mà chưa có nhà hoạt động
cách mạng nào có được - “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản” [6, tr.30].
3.2. Nhạy cảm với cái mới, linh hoạt trong việc
thâu hóa các giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại
Một trong
những nhân tố làm nên sự vĩ đại của Hồ Chí Minh là sự nhạy cảm với cái mới, đầu
óc phê phán tinh tường và linh hoạt trong việc tiếp biến các giá trị văn hóa.
Chính nhờ các nhân tố chủ quan này, Hồ Chí Minh đã hóa thân vào dân tộc và nhân
loại, làm thăng hoa chính dân tộc và thời đại mình, để lại dấu ấn không phai mờ
trong lịch sử phát triển của nhân loại.
Trước khi
ra đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh được trang bị nền tri thức văn hóa Quốc
học, Hán học và sớm tiếp thu những tri thức Tây học. Suốt hành trình 30 năm tìm
đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có mặt ở khắp các châu lục, đi qua gần 40 nước
khác nhau trên thế giới và làm nhiều nghề để sống, để tranh đấu. Bằng con đường
tự học, Hồ Chí Minh đã khiến thế giới kinh ngạc về trí tuệ mẫn tiệp, sự uyên
bác từ mọi phương diện. Theo sách Những
mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Hồ Chí Minh tự học bằng việc
mượn những cuốn sách nhỏ từ những người bạn làm việc trên tàu, học tiếng Pháp
khi làm vườn cho ông chủ tàu ở Saint Adresse, vào ngày nghỉ anh học tiếng Anh
với một giáo sư người Ý. Hồ Chí Minh đã tranh thủ thời gian và học với bất kỳ
người nào, ngoài những cuộc đi xem để học, anh không thích chơi bời gì khác.
Trong bản khai lý lịch dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã
khai ở mục thứ 18, biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Quảng Đông, tiếng Ý và cả
tiếng Đức.
Từ năm
1920, Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động lý luận sôi nổi. Người đã viết cuốn sách Những người bị áp bức (Les Opprimés)
bằng tiếng Pháp và nhờ Marcel Cachin đề tựa, viết bài cho các báo Le Populaire,
L’Humanité… Báo cáo của mật thám ngày
16/3/1920 còn cho biết: “Nguyễn Ái Quốc đang dịch một đoạn “L’ Esprit des Lois”
(Vạn pháp tinh lý) của Montesquieu sang quốc ngữ” và “Quốc chẳng được một Hội
kín nào giúp đỡ. Ông ta rất tự trọng, muốn là do tự mình đảm nhận việc in sách
bằng tiền để dành”. Tiếp đó, Hồ Chí Minh viết Bản án chế độ thực dân Pháp (Le Procès de la Colonisation
Francaise) được xuất bản tại Pháp năm 1925, nêu rõ tư tưởng và tinh thần chiến
đấu của dân tộc và nhân dân Việt Nam… Rõ ràng, thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc
bấy giờ đã xuất hiện nhiều nhân sĩ, trí thức yêu nước với nhiều quan điểm, hệ
tư tưởng và đường lối cứu nước khác nhau. Tuy nhiên, trong số đó, chỉ có Nguyễn
Ái Quốc với nhận thức “tìm con đường mới” đã tiếp nhận, thâu hóa các giá trị
tinh hoa của dân tộc và thời đại. Người đã hoạt động lý luận sôi nổi để hình
thành nên những quan điểm lý luận làm nền tảng hoạt động cho cách mạng Việt
Nam.
Hồ Chí
Minh đã kết tinh các giá trị văn hóa Đông Tây - hai nền văn hóa lớn của nhân
loại để làm giàu trí tuệ của mình. Sự kết tinh ấy không chỉ thể hiện trong nhận
thức khi Hồ Chí Minh tự nhận mình là “người học trò nhỏ” của các bậc vĩ nhân
đại diện cho tính đa dạng của nền văn minh nhân loại từ Khổng Tử, Giê su, Các
Mác cho đến Tôn Trung Sơn… Năm 1968, khi làm việc về sách Người tốt, Việc tốt, Hồ Chí Minh viết: “Một người phải biết học
nhiều người!” là một câu tổng kết rất có ý nghĩa. Đánh giá về trí tuệ uyên bác
trong việc tiếp biến, thâu hóa tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại của Hồ Chí
Minh, báo chí Bungari nhận định Hồ Chí Minh có “tầm hiểu biết uyên bác về châu
Á”, nghĩa là Hồ Chí Minh đã thâu hóa những giá trị tinh hoa của văn hóa phương
Đông, điển hình là Nho giáo, Phật giáo và Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn…
Đại văn hào Pháp Vichto Huygô nói rằng: “Trước một trí tuệ uyên bác, thông thái
thì tôi cúi đầu bái phục, còn trước một nhân cách cao cả thì tôi quỳ gối tôn
thờ”. Hồ Chí Minh có cả hai điều đó: trí
tuệ uyên bác và nhân cách cao đẹp.
Người thuộc về lớp người đặc biệt mà cái chết lại gieo mầm cho sự sống đời đời
bất diệt, thể xác thì hữu hạn nhân cách thì trường tồn.
3.3. Tư duy tổng hợp, khả năng dự báo và nắm
vững quy luật vận động của cách mạng Việt Nam
Với vốn kiến thức sâu rộng từ nhiều nền văn hóa, lối tư
duy tổng hợp, trí tuệ mẫn cảm và tầm nhìn chiến lược thiên tài, Hồ Chí Minh nắm
vững quy luật vận động của xã hội và thực tiễn Việt Nam để từ đó vạch ra những
dự báo lịch sử, quyết sách đúng đắn, định hướng, chỉ đạo sát hợp cho những bước
phát triển và thành công của cách mạng Việt Nam.
Những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều sĩ phu, văn thân, hào kiệt đã xác lập các
con đường cứu nước, các phong trào yêu nước, chống giặc ngoại xâm nổ ra nhưng
đều thất bại. Cách mạng Việt Nam lâm vào khủng hoảng đường lối giải phóng dân
tộc. Trước tình cảnh đó, khác với xu hướng và con đường cứu nước của cha ông,
gắn độc lập dân tộc với chế độ phong kiến, hoặc chủ nghĩa tư bản, Hồ Chí Minh
đã vạch rõ quy luật vận động của cách mạng Việt Nam là “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” [5, tr.1], là “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Đó thực sự là sự lựa chọn đúng đắn
thể hiện trí tuệ và tầm nhìn cách mạng của Hồ Chí Minh và điều đó đã được lịch
sử cách mạng nước ta và nước khác trên thế giới trong thế kỷ XX chứng minh là
hoàn toàn đúng đắn.
Về khả
năng dự báo, từ tháng 2 năm 1942, tại mục“Những
năm quan trọng” trong tác phẩm Lịch sử nước ta do, Hồ Chí Minh dự báo “1945 Việt Nam độc lập”. Ba năm sau,
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta giành được độc lập, lịch sử cách mạng
Việt Nam một lần nữa chứng minh tiên tri cách mạng của Hồ Chí Minh là hoàn toàn
chính xác.
Trước
Cách mạng Tháng Tám, chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng nhiều nước,
Hồ Chí Minh đã nhận định: “Nay cơ hội giải phóng đã đến rồi, đế quốc Pháp bên
Âu đã không thể tự cứu, càng không thể cứu bọn thống trị Pháp ở ta. Đế quốc
Nhật đã bị sa lầy ở Trung Hoa, lại đương gay go với Anh, Mỹ” [5, tr.299] và
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII (tháng 5-1941) nhận định: “Nếu cuộc
chiến tranh đế quốc lần trước đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì
cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà
cách mạng nhiều nước thành công. Đó là tiên tri lịch sử của Hồ Chí Minh và dự
báo đó thành hiện thực lịch sử những năm giữa thế kỷ XX” [9, tr.329.].
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của dân tộc Việt
Nam, mùa xuân năm 1947, Hồ Chí Minh chỉ thị cho bộ đội phải anh dũng chiến đấu
và xây dựng cơ sở vững chắc trong đồng bào Tây Bắc, phải “đem được lá cờ đỏ sao
vàng cắm trên đất Điện Biên Phủ”. Tháng 6 năm 1949, viết tác phẩm Giấc ngủ mười năm, với bút danh Trần Lực,
Hồ Chí Minh đã dự đoán chiến thắng Điện Biên Phủ là “trận cuối cùng kết thúc thắng
lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp” và trận ấy “hơn một vạn giặc chết và
bị thương”. 5 năm sau, ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, quân
dân ta chiến thắng, dự báo của Hồ Chí Minh, thêm một lần nữa, lại đúng.
Đến thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, trong bản thảo Diễn văn kỷ niệm Quốc khánh lần thứ 15 nước
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1960, Hồ Chí Minh dự báo “chậm lắm là 15
năm nữa Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sẽ sum họp một
nhà”. Mười lăm năm sau, với đại thắng mùa xuân năm 1975 của quân dân ta, miền
Nam hoàn toàn giải phóng, Tổ quốc thống nhất, sự báo của Hồ Chí Minh trở thành
một hiện thực lịch sử…
Những dự báo thiên tài của Hồ Chí Minh trong thực tiễn chỉ đạo
cách mạng Việt Nam đã thể hiện sự nắm vững quy luật vận động và phát triển của
cách mạng Việt Nam và thế giới một cách khoa học và hiệu quả; những định hướng,
những quyết sách ấy của Người đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và thành
công của cách mạng Việt Nam. Tại Hội thảo quốc tế kỷ niệm 100 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh (Hà Nội - 1990), Tiến sĩ A.Atmet, Giám đốc Unesco khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương - đại diện đặc biệt của Tổng Giám đốc Unesco đã khẳng định:
“Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay
khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ được ghi nhớ
không chỉ là người giải phóng cho tổ quốc và nhân dân bị áp bức mà còn là một
nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một tương lai hy vọng mới cho những người
đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái
đất này” [3, tr.28-29].
3.4. Trí tuệ uyên bác của
một nhà văn hóa kiệt xuất với nhiều đóng góp về nhiều mặt trong các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục và nghệ thuật
Lịch sử
phát triển của nhân loại đã chứng minh một sự thật hiển nhiên rằng, các dân tộc
trong quá trình xây dựng và phát triển đã sản sinh biết bao nhân tài nhưng
không phải bất cứ ai cũng trở thành vĩ nhân của dân tộc. Một con người được gọi
là vĩ nhân khi có “tâm hồn lớn, tình yêu lớn, sáng tạo, có nghị lực và niềm tin
lớn vào chân lý cuộc đời. Những giá trị tinh thần do người ấy sản sinh ra ảnh
hưởng đến một thời đại, một giai đoạn dài lâu, có tác dụng biến đổi và thúc đẩy
lớn lao, tạo nên vóc dáng mới cho con người, cho trí tuệ và nền văn hóa dân tộc
phát triển theo chiều hướng tiến bộ của lịch sử”. Hồ Chí Minh là
một vĩ nhân của lịch sử Việt Nam và thế giới, con người tiêu biểu của văn hóa
dân tộc và nhân loại trong thời đại mới. Năm 1923, trong bài Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn
Ái Quốc được đăng trên Báo Ogoniok (Liên
Xô), số 39, ngày 23-12-1923, nhà báo Ôxip Mandenxtan đã nhận xét rằng: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một nền văn hóa, không phải
văn hóa Châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai... Qua cử chỉ cao
thượng, tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi như thấy được ngày mai, như
thấy được viễn cảnh trời yên bể lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như
đại dương” [4, tr. 462-463]. Nhân kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
(1990), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã tôn
vinh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng
dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Người là một tấm gương sáng
về hoạt động sáng tạo văn hóa, thể hiện sự uyên bác về tri thức cũng như đa dạng
các hoạt động văn hóa của Người.
Trước hết, Hồ Chí
Minh đã nhận thấy được sức mạnh của văn hóa đối với sự nghiệp cách mạng và đề
ra những quan điểm, luận điểm về xây dựng một nền văn hóa mới nhằm “soi đường
cho quốc dân đi”. Người chủ trương xây dựng nền giáo dục toàn diện, lấy
chất lượng làm cốt, hướng
đến việc phát triển toàn diện con người. Trong đó, phương
pháp giáo dục phải phù hợp, dân chủ, lấy nêu gương và giáo dục tinh thần tự học
làm nền tảng, đồng thời phải huy động mọi lực lượng tham gia giáo dục và đào tạo
con người.
Là chủ thể sáng tạo văn hóa, Hồ Chí Minh đã làm chủ được nhiều
ngôn ngữ khác nhau trong viết văn, viết báo, làm thơ, luận bàn chính trị và hoạt
động văn hóa... Người là nhà thơ, nhà văn, nhà báo cách mạng vĩ đại với hơn 250 bài thơ, khoảng 2000 bài
báo, nhiều truyện ngắn, văn chính luận, tiểu phẩm văn học… Những bài thơ chúc
tết đầy sức sống, những lời hiệu triệu mạnh mẽ hùng hồn; những thành tựu văn
chương đặt nền móng cho nền văn xuôi hiện thực mới; những bài báo ngắn gọn, súc
tích góp phần thức tỉnh dân tộc, phản ánh sức sáng tạo văn chương, nghệ thuật ở
Người. Chính những cống hiến to lớn đó, Nghị quyết của UNESCO đánh
giá: “Sự đóng góp về nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực
văn hóa, giáo dục và nghệ thuật là kết tinh của truyền thống hàng ngàn năm của
nhân dân Việt Nam và những tư tưởng của Người là hiện thân của các dân tộc
trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự hiểu biết
lẫn nhau” [8].
4. KẾT LUẬN
Với nhân cách cao đẹp, trí tuệ uyên bác, Hồ Chí Minh trở
thành tấm gương để Đảng ta, dân tộc ta và nhân dân ta noi theo. Nhờ sự khổ công
học tập, tôi luyện và trưởng thành qua thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh đã qua
vượt qua sự hạn chế về mặt lý luận và phương pháp cách mạng của các bậc tiền bối,
để tìm ra con đường cứu nước và giải phóng dân tộc. Những dự báo thiên tài, được
hiện thực hóa thành công qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, cùng với cống hiến
to lớn về văn hóa, giáo dục và nghệ thuật, Hồ Chí Minh xứng đáng là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt
xuất của Việt Nam, là người thầy mẫu mực về nhân cách trí tuệ, là tấm gương
sáng ngời cho chúng ta noi theo trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá
hiện đại hoá trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới
đang diễn ra mạnh mẽ, kinh tế tri thức ngày càng có vai trò nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất. Điều này, đòi hỏi chúng ta phải tích cực,
chủ động, tự học, học thường xuyên, học suốt đời để chiếm lĩnh được hệ thống
tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, học tập và rèn luyện theo tấm gương nhân cách Hồ
Chí Minh về trí tuệ để vươn lên góp phần xây dựng nước ta trở thành một nước
giàu mạnh.
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
[1]
Trần Văn
Giàu, Trần Bạch Đằng (2009). Vàng trong
lửa - Chủ tịch Hồ Chí Minh với miền Nam Tổ quốc, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ
Chí Minh.
[2]
Đặng Xuân
Kỳ (1990). Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí
Minh, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
[3]
M. Atmet (1995). “Hồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại
đã cống hiến trọn đời mình cho sứ mệnh tự do, độc lập”, Trung tâm Khoa học
xã hội và Nhân văn quốc gia, Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam, Hội thảo quốc
tế Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[4]
Hồ Chí
Minh (2011).
Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
[5]
Hồ Chí Minh (2011). Toàn
tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[6]
Hồ Chí
Minh (2011). Toàn tập, tập 12, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[7]
Đỗ Long
(2008). Hồ Chí Minh - Những vấn đề tâm lý học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[8]
UNESCO
(1987). Nghị quyết 24C/18.65 của Đại hội đồng UNESSCO khóa
24-1987 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
[9] Dương
Trung Quốc (2001), Việt Nam những sự kiện
lịch sử (1919-1945), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
(Bài báo đăng Tạp chí Khoa học và Giáo dục Trường ĐHSP Huế, Số 2 (34) năm 2015)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)